L. fermentum CECT5716 giúp chống nhiễm trùng đường ruột

L. fermentum CECT5716 chứng tỏ khả năng bảo vệ chống nhiễm trùng đường ruột trong phòng thí nghiệm, như đã thấy trong hai mô hình thử nghiệm đối với chủng vi khuẩn Salmonella choleraesuis. Bổ sung L. fermentum CECT5716 vào dung dịch có chứa S. choleraesuis dẫn đến sự phát triển vi khuẩn gây bệnh giảm đáng kể sự phát triển so với môi trường kiểm soát.

Trong một nghiên cứu về tác dụng kháng khuẩn của L. fermentum CECT5716 trên đối tượng chuột nhiễm S. choleraesuis, nhóm chuột được hấp thụ L. fermentum CECT5716 có tỷ lệ sống sót cao hơn (60%) so với nhóm kiểm soát (10%). Điều này cho thấy L. fermentum CECT5716 có thể phát huy tác động chống nhiễm khuẩn salmonella trong cả môi trường ống nghiệm và trên cơ thể sống (Olivares M et al. 2006).

L. fermentum CECT5716 tạo ra chất kháng khuẩn gây ức chế sự phát triển của các chủng vi khuẩn gây bệnh như E. coli 433, Salmonella choleraesuis spp., Listeria Scott A và Staphylococcus aureus. Một cơ chế có thể nữa là L. fermentum CECT5716 tạo ra acid lactic làm giảm độ pH trong ruột, do đó kiềm chế sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh. L. fermentum CECT5716 làm tăng tính thẩm thấu qua màng của khuẩn gram âm, do đó làm suy giảm tỷ lệ sống sót và tăng tiếp xúc với các hợp chất diệt khuẩn (Olivares M et al. 2006).

L. fermentum CECT5716 kích thích sản xuất dịch nhầy cấu thành lớp hàng rào bảo vệ đầu tiên của biểu mô đường ruột khi bảo vệ chống nhiễm trùng. Trong một số loại dịch nhầy thì L. fermentum CECT5716 đặc biệt tăng cường biểu hiện gen của MUC2 và MUC5B. Do vậy, L. fermentum CECT5716 cải thiện lớp bảo vệ biểu mô đường ruột khỏi nhiễm trùng (Olivares M et al. 2006).

L. fermentum CECT5716 ngăn vi khuẩn gây bệnh bám vào niêm mạc ruột và thúc đẩy việc loại bỏ mầm bệnh qua phân. Ngay khi mầm bệnh đến niêm mạc đường ruột, để có thể xâm chiếm và định cư chúng phải bám chặt các thành phần của chất nền ngoại bào của vật chủ. Vì chúng bám vào biểu mô ruột nên mầm bệnh không thể bị loại bỏ khỏi đường ruột. L. fermentum CECT5716 có thể bám vào mầm bệnh đường ruột và vì vậy ngăn chúng tiếp cận niêm mạc ruột và được các tế bào biểu mô tiếp nhận (Olivares M et al. 2006).